Tham gia kháng chiến Thế Lữ

Trước khi chiến tranh bùng nổ

Trở về ngôi nhà cũ ở bãi Nghĩa Dũng, Hà Nội sau chuyến lưu diễn, gia đình Thế Lữ lại rơi vào cảnh khó khăn túng bấn. Lúc này tình hình chính trị, đảng phái đang rất phức tạp; đôi khi một số thành viên Quốc dân Đảng như Trọng Lang Trần Tán Cửu thường đến nhà chơi, chuyển lời mời gặp của Nguyễn Tường Tam đến Thế Lữ[61]. Mặc dù như đã từng nói với Song Kim "Suốt đời anh chỉ sống cho văn chương, nghệ thuật mà thôi. Anh không làm chính trị"[62], nhưng sau Cách mạng tháng 8, Thế Lữ thể hiện thái độ ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh. Ông từ chối gặp mặt Nguyễn Tường Tam, cũng như không viết bài cho báo Việt Nam của Quốc dân Đảng[61].

Khi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp (24 tháng 11 năm 1946), Thế Lữ đã viết bản báo cáo Sân khấu Việt Nam và kế hoạch xây dựng nền tân kịch để đọc trước hội nghị. Trong bản báo cáo này, ông nêu lên sự quan trọng, cần thiết của việc xây dựng nền tân kịch (kịch nói), đồng thời đề ra một kế hoạch tương đối tỉ mỉ, chu đáo về tất cả các mặt diễn viên, tổ chức, sáng tác, nghiên cứu và tuyên truyền nghệ thuật kịch nói. Thế Lữ viết:

Nền tân kịch nước ta, cũng như mọi ngành văn hóa khác, cần phải mau tiến tới độ phong thịnh. Phải cùng với mọi công cuộc kiến thiết khác là một đài tạ nguy nga.

...Nghề diễn kịch cũng phải được yêu chuộng như thế. Muốn cho công chúng ham mê thì điều cần thiết nhất không riêng ở vở kịch phải dẫn dắt cho khéo mà còn ở, mà nhất là ở kỹ thuật biểu diễn của các tài tử... Tân kịch phải có những nghệ sĩ thuần thục về kỹ thuật, nghĩa là đã có đủ phương cách vận dụng tài năng, sai khiến giọng điệu của mình để làm rung động mọi người, để gây những mỹ cảm hoàn toàn cho công chúng, trong một cuộc tập hợp và cảm thông của tri thức đáng yêu quý, đáng ham mê mà ta gọi là diễn kịch...[63]

Cuối năm 1946, tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và quân Pháp lên cao, nhiều người dân tản cư trước cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Được lời mời của một người bạn trong ban kịch là Nghiêm Hà Ngữ, Thế Lữ - Song Kim quyết định tản cư về Hòa Xá, Hà Đông[64]. Vợ chồng ông khởi hành ngày 10 tháng 12, dù lúc đó vẫn hy vọng tản cư ít lâu rồi quay trở lại. Tối ngày 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Thế Lữ - lúc đó đang ở Hòa Xá - nói với Song Kim: "Chúng ta không về Hà Nội nữa! Chúng ta đi kháng chiến". "Nhưng chúng ta sẽ làm gì được cho kháng chiến?", Song Kim hỏi. Thế Lữ trả lời: "Làm kịch! Phải! Làm kịch kháng chiến!"[65].

Sau khi bắt liên lạc với Bùi Huy Phồn ở Vân Đình, Thế Lữ được biết về việc triệu tập các văn nghệ sĩ lên chiến khu Việt Bắc. Sau Tết Nguyên đán, đầu năm 1947, Song Kim và Thế Lữ lên đường từ Hòa Xá sang Phú Thọ, khởi đầu những tháng năm tham gia kháng chiến của hai người[43].

Hoạt động văn nghệ kháng chiến

Diễn ngoài trời, sân khấu đặt dưới chân dốc, người xem ngồi trên những sườn đồi thoai thoải chung quanh. Không gian sân khấu mở rộng; sàn diễn là đất cỏ ướt sương đêm, khán giả rất đông, ngồi sát nhau như những lớp sóng cao dần, cao dần, lẫn vào trời sao nhòa sáng và bóng núi trập trùng mất hút phía xa. Cảnh tượng giống như những kịch trường rộng lớn của Hy Lạp cổ, nơi sân khấu còn giữ nguyên vẻ thuần phác hùng tráng, với niềm vui nồng nhiệt của hội hè dân dã, với sự giao hòa mãnh liệt giữa người xem và người diễn. Sân khấu kiểu này, Thế Lữ vẫn thường ao ước, nay mới có dịp thực hiện.

Lưu Quang Vũ nói về buổi kịch đầu tiên ở Ấm Thượng[66]

Ở Phú Thọ, Thế Lữ – Song Kim đi lên Xuân Áng (Hạ Hòa, Phú Thọ), nơi tập trung nhiều văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến. Đoàn văn hóa kháng chiến nơi đây do họa sĩ Tô Ngọc Vân làm trưởng đoàn được thành lập. Vợ chồng Thế Lữ, cũng như các văn nghệ sĩ khác, sống ở một nhà dân gần trại văn hóa kháng chiến, tham gia các hoạt động sáng tác, văn nghệ ở trại.

Ngày 19 tháng 8 năm 1947, để kỷ niệm hai năm ngày Cách mạng tháng 8 thành công, các văn nghệ sĩ trong Đoàn Văn hóa Kháng chiến tổ chức một tối kịch đầu tiên tại Ấm Thượng. Chương trình gồm hai vở Tay người đàn bà của Bùi Huy Phồn và Cụ đạo, sư ông của Thế Lữ, với Thế Lữ đóng vai cha Phan, họa sĩ Nguyễn Khang đóng vai cố đạo, Thanh Tịnh đóng thanh tra mật thám Pháp. Đêm kịch ở Ấm Thượng mở đầu cho những buổi diễn tiếp theo của Thế Lữ và nhóm kịch kháng chiến ở các vùng Ấm Hạ, Ao Châu,... xung quanh[67][68].

Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc (tháng 7 năm 1948) thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam, Thế Lữ được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban chấp hành của Hội, kiêm trưởng Đoàn Sân khấu Việt Nam[11]. Mùa hè năm 1948, nhân dịp Quân khu 10 tổ chức Đại hội tập huấn ở Vĩnh Trân, Thế Lữ dàn dựng vở kịch Đề Thám xuất quân, được Thế Lữ viết lại từ vở Đề Thám của Lưu Quang Thuận theo sự gợi ý của Thanh Tịnh. Đây là một vở diễn lớn được tổ chức ngoài trời, với hơn 150 diễn viên huy động từ lực lượng quân nhân, quần chúng ở quân khu, tái hiện lại cảnh lễ ra quân của Hoàng Hoa Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế[51][69].

Năm 1949, với phong trào văn nghệ đầu quân tham gia bộ đội, Đoàn Sân khấu Việt Nam chuyển thành Đoàn kịch Chiến Thắng. Thế Lữ, Song Kim cùng các nghệ sĩ trong đoàn đi theo các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam, đi biểu diễn nhiều nơi tại Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên...[70]. Ông tham gia đóng và dàn dựng hầu hết các vở của đoàn, như Đợi chờ, Giác ngộ, Anh Sơ đầu quân, Vết cũ, Vợ người thương binh, Ba người thợ... Tác giả của nhiều vở trong số này là Nguyễn Huy Tưởng, người cộng tác thường xuyên và tích cực nhất với Thế Lữ và đoàn kịch[71].

Năm 1952, Thế Lữ làm chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương. Ông dàn dựng bốn màn vở Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng. Sau chiến thắng của quân đội Việt Minh tại Nghĩa Lộ, Thế Lữ viết và đạo diễn vở Tin chiến thắng Nghĩa Lộ, có sự tham gia của Song Kim vai bà mẹ, Thế Lữ vai Ké Hàm, một vai diễn thành công khác của ông[72]. Thời gian này, ông cũng đi vào tìm hiểu về chèo, trực tiếp tham gia đóng và dàn dựng một số vở chèo.

Trong những năm Chiến tranh Đông Dương, bên cạnh làm kịch kháng chiến, Thế Lữ còn hoạt động văn học và báo chí. Ông là Ủy viên Ban Biên tập tạp chí Văn nghệ xuất bản hàng tháng ở Việt Bắc, tiền thân của báo Văn nghệ ngày nay[73].